Những clip sex hấp dẫn nhất
Chương 1:
Con người sinh ra ở đời lúc nào cũng vất vả, phiền muộn trăm chiều, không mảy may được thư nhàn sung sướng. Cũng may bực thánh nhân mở ra trời đất, bày chuyện ái ân nam nữ để có cái giải muộn giải sầu. theo lời các nhà nho xưa, thì cái vật phía dưới eo phụ nữ chính là cánh cửa sinh ra ta mà cũng là nấm mồ chôn ta.
Nhưng nếu không có vật này thì e tóc sẽ bạc sớm hơn vài năm, tuổi thọ sẽ giảm đi vài tuổi. Không tin cứ nhìn các vị hòa thượng, có mấy ai bốn năm mươi tuổi mà tóc không bạc có mấy ai bảy, tám mươi mà nhục thân không rã. Hoặc giả nếu cho rằng cứ đem hòa thượng ra mà nói thì khó, thì xem như những cư sĩ tại gia, đều cũng theo con đường này cả.
Xa thì gian dâm với phụ nữ, gần thì bỡn cợt với đồ đệ, cũng không khác kẻ phàm tục, không biết giữ nề nếp. Còn như bọn thái giám đời xưa, gian dâm với phụ nữ không được mà bỡn cợt với đồ đệ cũng không xong, vì còn cái gì đâu để mà gian dâm, còn cái gì đâu để mà bỡn cợt. Da nhăn tóc bạc hơn người, tưởng đã sống tới vài trăm năm, tiếng gọi là ông mà thực có khác chi bà.
Nơi kinh sư Bắc kinh, chỉ có kẻ thường dân là sống lâu, còn bậc nội giám nào đã ai trăm tuổi. Thế mới biết hai chữ Nữ Sắc vốn không làm hại gì ai, chẳng qua vì trong Bản Thảo Cương Mục không từng có ghi vị thuốc này, cho nên việc chú giải không định rõ. Người cho là thuốc bổ, kẻ gọi là thuốc độc, nhưng xét cho kỹ thì quả có bồi dưỡng con người. Dược tính của nó chẳng khác nhân sâm phụ tử, có thể dùng chung với các vị thuốc này. Có thể dùng như sâm mà không thể gọi là cơm. Nếu không dể ý tới phân lượng, không quan tâm tới giờ giấc, chỉ cốt sao cho thật no say thì thường là hại.
Cái lợi, cái hại của nữ sắc cũng thế. Trường phục thì âm dương đều hòa, đa phục thì xung khắc như nuớc với lửa, biết dùng như thuốc thì giải được ẩn uất, ăn như cơm thì hại tinh huyết.
Nếu người đời biết dùng nữ sắc như vị thuốc, không thưa thớt quá mà cũng không dồn dập quá, thì không thể không tốt, mà cũng không thể quá tốt. Lúc chưa gần nữ sắc, trong bụng nghĩ rằng vị thuốc này không độc tại sao lại sợ. Khi đã gần nữ sắc rồi, trong bụng nghĩ rằng vị thuốc này không phải là cơm thì sao cứ đắm đuối say mê.
Như thế thì không những dương không quá, âm không bí, không có người chết non, mà có thể giúp cho trai có vợ, gái có chồng đúng theo vương đạo, không phải là vô ích. Chỉ có điều, vị thuốc này dược tính giống như nhân sâm, phụ tử, nhưng nơi sản xuất, cách sử dụng thì có khác đôi chút, người dùng không thể không thấu.
Nói về nhân sâm, phụ tử, thì loại "ngoại địa" tốt. Loại "thổ sản" có uống cũng vô ích, Còn nói về nữ sắc thì trái lại, loại "thổ sản" tốt, loại "ngoại địa" không những vô ích mà còn có hại cho người nữa.
Thế nào là "thổ sản"? (cơm nhà) Thế nào la "ngoại địa"(quà chợ)?
Nay có sẳn đàn bà thê thiếp, không cần phải tìm đâu xa, cũng không tốn kém tiền bạc, với tay trong túi lúc nào củng được, ta gọi đó là "thổ sản". Với loại người này, ta mặc tình ăn nằm dọc ngang, không gì trở ngại, gõ cửa lúc nào cũng được mở, không e dè sợ hải. Ðã không làm hại nguyên khí mà còn lợi cho việc truyền giống, một khi giao cảm thì toán thân sảng khoái, gọi đó là bồi dưỡng cho người, há không phải hay sao.
Muốn tìm cho ra diễm sắc, thì phải đến "ngoại môn". Gà nhà vị lạt, thịt không tươi bằng gà đồng, ta gọi đó là "ngoại địa". Gặp hạng phụ nữ này thì không khỏi đêm mơ tưởng, nghĩ cách chiếm đoạt cho bằng được. Tìm vật khêu gợi, rồi đem tặng nhau, hoặc trèo tường để đến hẹn, hoặc đào hang để tư tình. Nhi nữ tình trường, anh hùng khí đoản, kẻ mày râu vì xung động nhất thời mà sa vào vực thẳm khôn lường, đương đầu với mối họa phi thường, đã âm thầm làm tổn thương âm đức mà cũng trắng trợn mất phẩm giá, có khi đến nỗi bị giết hại. Mình chết đã không có người đền mạng, mà vợ nếu còn sống, cũng bị thất tiết. Bao nhiêu tai họa thê thảm biết chừng nào, thế mới biết con người ở đời đối với hai chữ Nữ Sắc ra sao.
Rõ ràng là không thể bỏ cái gần mà tìm cái xa, kén cái tinh mà chọn cái béo, chê cái bình thường mà cầu cái quái dị. Người viết bộ tiểu thuyết này thấu rõ lòng dạ đàn bà nên muốn trình bày với đời, khuyên người đời dập tắt lửa dục chứ không khuyến dâm người đời, xin bạn đọc đừng hiểu lầm chủ ý của tác giả. Thế nhưng sao bộ tiểu thuyết này viết thành tiểu thuyết phong lưu lãng mạn? Ðiều này quả có một cái lẽ khác của nó.
Thưa độc giả, xưa nay không thiếu gì sách thánh hiền khuyến thiện. Nhưng con người vẫn hay ưa tìm sách phong lưu mà đọc, trái với tôn chỉ thánh nhân, xem đó thì người đời đã chán ngán cổ thư,chỉ càng tìm sách chi tiết về trữ tình chừng nào càng được chuộng chừng đó, đến thành một xã hội phi luân
Xưa vua Vũ trị thủy, công cuộc khó thay, "... ngài đắp mãi đê cho cao tới đỉnh núi, nhìn xuống khắp chốn bao la, mới thấy sự rộng lớn, thuận thời thuận sóng mà khai rạch khai mương thoát thủy ra biển, cứu dân thoát nạn lụt".
Thời bây giờ cũng thế, ai muốn khai mở bế tắc luân thường đạo lý cũng phải nương theo sóng tình mà cải biến lòng người. Nương theo chuyện vô luân mà khuyến thiện vậy. Làm cách này không xong, như thánh nhân, phải làm cách kia vậy.. Thiếu gì người ham hố chuyện phong lưu gái đẹp, nhưng biết đâu chả có lúc thấy ra, là không có gì bằng thê thiếp tại gia.
Người đọc hãy tự tìm lấy điều ấy nơi cuối truyện. Ðó là cách người viết cuốn này dùng lửa trị lửa, khuyến người bằng tính người. Sen tự nở trong bùn mà ra.
* * *
Còn như ai muốn bảo tôi muốn viết dâm thư, người ấy cứ việc. Ai muốn suy nghĩ hai lần sau khi đọc sách này, đấy là chủ ý cuả tác giả. Mô tả kỹ lưỡng chuyện phòng the chỉ là để chỉ dẩn tới sự cay đắng của đời mà thôi.CHƯƠNG 2 :
Xem phim sec manh
clip sex hap dan
Truyện xảy ra vào đời Nguyên (1280-1368), khoảng năm Chí Hòa (1328). Lúc ấy trên núi Ðiểm thương, có một vị ẩn tu, pháp danh Chính nhất, đạo hiệu Cô Phong. Ngài vốn người Châu quận, theo học Khổng thầy là một vị tú tài nổi tiếng. Nhưng do thiện căn, lúc sinh ra mới đầy tháng còn trong nôi đã ê a kỳ lạ, chẳng khác chi học trò trả bài, cha mẹ ngạc nhiên lắm. Có một nhà sư khuất thực trước cửa nhà, gặp a hoàn bồng ngài ở trên tay, mà miệng cứ ra tiếng, khóc không phải khóc, cười không phải cười. Nhà sư mới lắng tai nghe rồi nhận ra đứa bé đang tụng Lăng Nghiêm Ðại Tạng, chính là hóa kiếp của một vị cao tăng. Nhà sư xin với cha mẹ đứa bé để được thu nhận làm đệ tử.
Bậc cha mẹ cho là lời xằng bậy, không tin mà từ chối, về sau dốc lòng bắt ngài trau dồi kinh sử để theo đường công danh. Lớn lên ngài học đâu nhớ đó. Rồi vì chuyện khoa danh không phải điều ngài mơ ước, nhiều lần ngài muốn bỏ Nho để học Phật, nhưng đều bị cha mẹ roi vọt, nghiêm khắc cản trở.
Bất đắc dĩ ngài cũng đi thi cho có lệ. Sau khi cha mẹ đều qua đời, ngài chịu tang hai năm, rồi phân chia gia sản cho người trong họ. Phần mình chỉ có mộ cái túi da lớn, chất mõ và kinh kệ vào trong, xong rồi cạo đầu lên núi tu hành.
Người biết gọi ngài là Cô Phong trưởng lão, người không biết gọi ngài là Bố Ðại hòa thượng (hòa thượng xách bị). Ngài không giống các nhà sư khác, không những đối với các chuyện rượu thịt, tà dâm... thủ giới rất nghiêm, mà ngay cả với chốn tăng gia cũng giữ luôn ba giới cấm là không khất thực, không giảng kinh, không ngụ nơi danh sơn để tu hành.
Có người hỏi tại sao không khất thực, ngài dạy: "Việc học Phật, đại để bắt đầu từ những hành vi thiện. Phải cực khổ, phải vất vả, phải bị cái đói, cái rách bức bách hằng ngày thì cái ý niệm dâm ô mới không sinh ra, dâm dục không sinh thì cái ô trược bị tống khứ, mà cái thanh tĩnh sẽ mỗi ngày mỗi đến, lâu dần rồi tự nhiên thành Phật, ngay cả kinh cũng có thể không bắt buộc phải niệm, mõ cũng có thể không bắt buộc phải gõ. Nếu không khốn cùng mà vẫn có ăn, không dệt mà vẫn có áo mặc, cả ngày chỉ trông cậy vào bá gia, bá tính cúng dường như vậy rõ ràng đã không thành Phật mà thân sa vào địa ngục mấy hồi. Vì vậy, tôi làm lấy mà ăn, tự giới không khất thực."
Có người thắc mắc tại sao không giảng kinh, ngài dạy: "Lời lẽ trong kinh tạng là từ Phật, Bồ tát nói ra. Trừ phi Phật, Bồ tát giảng thì được, chứ người khác ngày nào cũng đòi giảng thì có khác chi người điên giải mộng. Kinh kệ càng bàn, càng thành chi ly. Ðào Uyên Minh tức Ðào Tiềm đời Tấn, xưa kia chẳng nói "Ðộc thư bất cầu thậm giải" (đọc sách không cần phải giải rõ hẵn), đủ rõ ngưới Trung Quốc đọc sách Trung Quốc mà còn không dám mong giải cho rõ, huống hồ người Trung Quốc đọc sách ngoại quốc đòi bình giải, thì chỉ thêm sai mà thôi. Tôi không dám mong làm bậc công thần của Phật với Bồ tát, chỉ muốn được tránh không làm kẻ tội phạm đối với Phật thôi, thế nên tự giới không giảng kinh".
Có người lại hỏi tại sao không tìm nơi danh sơn mà ngụ, ngài dạy: "Kẻ tu hành cấm không được ham thấy sắc. Muốn cho tâm không loạn thì phải tránh xa sắc dục, không những đó là giọng đàn tiếng quyển ngọt ngào, mà còn là ngọn gió mát lướt nhẹ trên da thịt, vầng trăng sáng làm thỏa thích tâm hồn, mà còn là tiếng chim hót líu lo vui tai, là thức ăn khoái khẩu, tất cả đều đáng yêu đáng mến. Trước cảnh sông núi linh thiên đẹp đẽ, làm sao có thể không động lòng mà chẳng chấp bút đề thi, chị trăng dì gió cũng theo người nhập định, thì đêm hôm khuya khoắt làm sao có thể ngồi yên trên bồ đoàn?
Cho nên vào danh sơn để học thì việc học khó thành, vào danh sơn để tu thì tình căn nan tịnh. Huống chi nơi danh sơn nào mà chẳng có các bà các cô đến lễ bái, rồi cùng với các cô, có các cậu sẽ giỡ trò ghẹo nguyệt trêu hoa. Vì thế tôi bỏ nơi danh sơn mà dọn đến hoang sơn dể mắt tai khỏi bị nhiễm, thế thôi."
Người hỏi rất khâm phục khi nghe ngài đối đáp, cho rằng từ hồi nào tới giờ chưa có vị cao tạng nào được như thế. Ngài chỉ thực hiện ba điều giới cấm mà tuy không cầu danh nhưng danh càng nổi, dân chúng xa gần phát tâm chiêm bái thật đông.
Nhưng ngài không thu nhận đệ tử một cách hời hợt. Phải là kẻ có thiện căn thành tín thì mới được xuống tóc, nếu không đều tuyệt đối khước từ. Vì vậy tuy ngài xuất gia đã lâu mà đệ tử không được mấy người. Một góc núi, một túp lều tranh, cày ruộng mà ăn, múc nước suối mà uống, trên cột trước cửa nhà viết một đôi câu liễn:
Học Phật vô an lạc, thân tu hoạt du biến nhất thập bát tầng điạ ngục.
Tham thiền phi dung dị, minh vấn dĩ tọa phá kỷ thiên bách cá bồ đoàn.
Có nghĩa là:
Học Phật mà không cảm thấy an lạc, thì nên đi chơi khắp mười tám tầng địa ngục.
Tham thiền mà không thấy dễ, thì nên tự hỏi, mình đã ngồi nát bao nhiêu trăm ngàn tấm bồ đoàn rồi.
Chỉ cần gặp, là biết ngài bình sinh khổ hạnh như thế nào.
Một hôm trời thu, vào lúc sáng sớm, gió thu hiu hắt tiếng mõ vừa ngưng, côn trùng kêu, nhà sư ra sân quét lá, thay nước cúng Phật, thắp hương xong rồi vào nhà trên trải bồ đoàn ngồi thiền. Ngài ngẫu nhiên quên đóng cửa lại. Chợt có một thư sinh khôi ngô trẻ tuổi và hai tiểu đồng bước vào.
Thư sinh ấy làn da mắt thu thủy, dung mạo tựa Phan An, da mặt trắng như con gái, mày dài quá mắt, đồng tử đen trắng phân minh, long lanh bất định. Ðôi mắt ấy, người đời gọi là sắc nhản, mà đã là người có sắc nhãn thì thường không thích nhìn thẳng, chuyên nhìn nghiêng, lại không thích nhìn nơi nào bằng nhìn phụ nữ.
Người có sắc nhãn không cứ chỉ thấy rõ ở gần, mà còn có thể từ xa hằng mấy mươi trượng, chỉ cần đảo cặp mắt trong vòng hai cái là đã có thể thấy biết được phụ nữ đẹp xấu ngay. Gặp người đẹp tức khắc nhìn đắm đuối, nếu người ấy đứng đắn, sẽ phải cuối đầu mà tránh. Thấy vậy đôi mắt lại chìm đắm hướng về cõi hư vô. Nhưng nếu người phụ nữ cũng là loại có sắc nhãn, nghĩa là cùng một chứng như kẻ nam tử trên, thì bên này đắm đuối qua, bên kia đắm đuối lại, rồi thư tình một bức là xong
Cho nên dù trai hay gái, sinh ra có loại mắt này là một điềm chẳng lành, vì đó là căn do khiến danh dự sẽ tổn thương, tiết hạnh bại hoại. Quý độc giả, lỡ mà có đôi mắt ấy không thể không thận trọng vậy.
Bấy giờ chàng thư sinh bước vào, quỳ lạy bốn lạy trước tượng Phật, rồi cũng hướng về hòa thưọng mà quỳ lạy bốn lạy, lạy xong đứng yên qua một bên. Hòa thượng vì đang nhập định, nên không tiện đáp lễ, ngay khi nhập định xong, ngài rời khỏi bồ đoàn trang trọng lạy trả bốn lạy. Ngài mời khách an tọa và hỏi thăm tên họ, Thư sinh đáp: "Ðệ tử là khách phương xa, nhân đi chơi ngang vùng Giang Triết, biệt hiệu là Bán Dạ Sinh. nhân nghe danh sư phụ là bậc danh tăng ở đời này, là vị Phật sống trong thiên hạ, nên đã trai giới tắm gội, đến để xin cầu kiến."
Tại sao hòa thượng hỏi tên, mà chàng thư sinh chỉ nói đến biệt hiệu mà thôi? Ấy chẳng qua là vì cuối đời Nguyên, sĩ phu không thích gọi nhau bằng tên họ, mà họ chỉ gọi nhau bằng biệt hiệu thôi. Vì thế có người xưng là mỗ sinh, có người xưng là mỗ tử, có người xưng đạo nhân, chữ mỗ có nghĩa "nào đó". Ðến như chọn biệt hiệu thì lại tùy theo tính tình của mỗi ngườimà đặtcho hợp, cốt sao cho mình tự hiểu. Thư sinh, sở dĩ lấy biệt hiệu Bán Dạ Sinh, là vì thứ nhất tuổi còn trẻ, thứ hai đam mê tữu sắc, thích ban đêm mà không thích ban ngày, lại thích lúc nửa đêm mà không thích sau nửa đêm. Hơn nữa trong Kinh Thi có câu:
Hữ độ như hà
Kỳ dạ vi ương
Có nghĩa là:
Ðêm thế nào
Ðêm chưa quá nửa.
Biệt hiệu Vị Ương, hay (Tiền) Bán Dạ Sinh chính là xuất phát từ đó.
Nghe thư sinh kính ngưỡng quá lời, hòa thượng bèn đáp lại bằng một câu khiêm tốn. Thấy thầy trò họ đi bộ từ xa đến chắc đã đói bụng, sẵn cơm chín, hòa thượng giữ họ lại cùng ăn bữa cơm đạm bạc. Trong lúc thụ trai hai người đối tọa và cùng bàn luận đạo thiền rất tương đắc. Thì ra Bán Dạ Sinh vốn rất thông minh, không những học sâu học kỹ, mà còn tham bác cả tam giáo cửu lưu, không sách vở nào mà lọt khỏi mắt.
Ðạo thiền vốn tinh thâm, đối với người khác phải giảng đi giảng lại trăm ngàn lần mà còn không hiểu thay, vậy mà đối với chàng, hòa thượng chỉ cần nhắc câu đầu là chàng hiểu ngay cả đoạn.
Tuy không nói ra nhưng hòa thượng đầy thắc mắc trong lòng: "Thật là một thanh niên trí tuệ! Chỉ giận một điều là tại một người học Phật như vậy, tại sao tạo hóa lại ban cho một tướng mạo thật oan nghiệt. Trông hình dung xét cử chỉ, rõ ràng đây là con quỷ dâm dục hạng nặng. Nếu mình không thu phục nó vào trong bị được, chắc chắn sau này không biết bao nhiêu phụ nữ phải khổ vì nó.
Nếu hôm nay mình không thấy thì thôi, đã thấy một người gây loạn như thế mà mình không ra tay trừ nạn cho chúng sinh, thì đâu phải là đạo từ bi. Dẫu nghiệt căn của nó cố định, không lay chuyển được, nhưng mình củng phải vận dụng hết lòng từ bi, xem có cứu được nó chút nào không."
Nghĩ vậy hòa thượng bèn nói với Bán Dạ Sinh: "Bần tăng từ khi lập tâm lánh đời đến nay, đôi mắt này đã nhìn thấy bao nhiêu là người. Cố nhiên là không nói đến bọn ngu phu ngu phụ rắp tâm huớng thiện, ngay cả những người có học thức, có địa vị, đã đến đây ngồi thiền nghe pháp, ai nấy đều là khách xa. Nói chung ngộ đạo và ngộ thiền là hai thứ thông minh khác nhau. Ngộ đạo dễ, ngộ thiền khó. Học nho nghe một có thể biết mười, còn học Phật may ra nghe một chỉ biết hai mà thôi. Không ngờ gặp hiền cư sĩ thông minh mẫn tiệp đến thế. Với tài năng ấy, nếu học thiền thì chỉ trong vài năm là có thể đắc tam muội. Sống ở đời, cái dễ được là cái hình thể, cái khó được là tính linh, dễ qua là thời gian, khó qua là kiếp số. Cư sĩ lại dây với cầu kiến làm Phật, thì đừng theo đường ma.Vậy thì tại sao không nhân buổi sáng hôm nay cắt bỏ ái dục, lánh hẳn vào cửa thiền. Ý tứ của bần tăng tuy vụng, nhưng chắc bổ ích phần nào. Nếu có thể phát được đại nguyện này, ra sức chứng được đại nhân quả này, thì trăm năm sau sẽ có thể, trên phối hưởng với tăng môn, dưới không theo lệnh của La sát, cư sĩ nghĩ sao?"
Bán Dạ Sinh đáp: "Từ lâu đệ tử vốn tha thiết với đạo thiền, trước sau thế nào cũng quay về với pháp môn. Có điều tam niệm của đệ tử một khi chưa thỏa, thì khó thoát ly. Hiễn đệ tử tuổi còn nhỏ, trước khi quy y phải xong hai việc, hưởng thụ xong vài năm kẻo uổng cả đời người, rồi sau đó sẽ xin xuống tóc quy y cũng không muộn".
Hòa thuợng hỏi: "Dám hỏi cư sĩ hai điều nguyện ấy thế nào? Phải chăng đó là công danh, phú quý, trước là cho bỏ công ăn học, sau là để vẹn nghĩa vua tôi hay không"
Bán Dạ Sinh lắc lắc đầu: "Thưa không, hai chữ công danh tuy nằm trong bổn phận của người đi học, nhưng người ắt được thì ít mà kẻ không thỏa thì nhiều. Hồi trước Lưu Bị cũng chưa từng thi đậu bao giờ, trong khi Lý Bạch là người có đại đăng khoa, thế nên có tài mà cũng cần có mệnh, thì đệ tử làm sao tự làm chủ dược mệnh? Ngay trong việc lập công danh sự nghiệp, cũng còn tùy số trời. Trời không cho, người không chịu, thì cho có lòng trung như Nhạc Vũ Mục, nghĩa khí như Quan Vân Trường cũng chịu thôi. Ðành nát lòng, bỏ xác, có chắc gì giúp được cho nước nhà. Hai chữ lợi danh mà người ta coi là quan trọng, đệ tử biết không nên màng, nên nguyện ước của đệ tử không phải là ở chổ đó".
Hòa thượng hỏi: "Rốt ráo, sở nguyện của cư sĩ là gì?"
Bán Dạ Sinh đáp: "Sở nguyện của đệ tử chính là điều mà tự sức dệ tử có thể làm, là điều mà lòng dệ tử tin, tuyệt đối không phải là vọng tưởng, không là điều gì khó nói cho lắm. Không dám nói dấu sư phụ, trí nhớ cuả dệ tử khi đọc sách, sự giác ngộ của đệ tử khi nge đạo, tài chấp bút của dệ tử khi hành văn, nhất nhất hơn người. Mấy tay danh sĩ đời nay chẳng qua chỉ chắp nối, ráp đầu này nối đầu kia thế thôi, viết được vài ba thiên sách, in được một bộ thi văn là đã lập văn đàn nọ, mở thi đàn kia,múa may quay cuồng một cõi, thật chẳng qua chỉ toàn vay mượn. Theo đệ tử, muốn làm một danh sĩ chân chánh, bắt buộc phải đọc hết các sách lạ trong thiên hạ, phải giao thiệp vvới tất cả các bậc kỳ sĩ ở đời, phải đi chơi khắp các nơi danh sơn trong bốn cõi, rồi lui về mai danh ẩn tích, trứ thư lập ngôn để truyền lại cho đời sau, nếu may mà đè tên bảng hổ thì đem tài năng ra giúp nước, giúp đời, tạo dựng sự nghiệp, nếu vạn nhất văn phúc không tròn, cho dù ở địa vị thấp kém hơn người, còn lưu tiếng thơm muôn thuở. Vì thế đệ tử nhủ thầm trong bụng câu thơ sau đây:
Yếu tố thế gian đệ nhất tài tử.
Có nghĩa:
Là trang tài tử nhất trong đời.
Hòa thượng nói: "Ðấy là câu thứ nhất, thế còn ước nguyện thứ hai?"
Bán Dạ Sinh dè dặt, như sợ bị hòa thượng cười, không dám nói ra.
Hòa thượng bảo: "Còn câu hai, nếu cư sĩ ngại không nói ra thì để bần tăng nói thay cho"
Bán Dạ Sinh nói: "Chuyện trong lòng đệ tử, làm sao sư phụ nói được?"
Hòa thượng nói: "Thì cứ để bần tăng nói đã, nếu sai thì phạt. Có điều nói ra mà đúng thì cư sĩ phải nhận là đúng,không được chối quanh"
Bán Dạ Sinh nói: "Lời sư phụ không những là của bồ tát, mà của thần thánh. Con muốn được sư phụ chỉ dẩn đâu là đường mê nẻo chánh, há dám chối từ."
Hòa thượng thung dung chậm rãi nói:
"Yếu thú thiên hạ đệ nhất vị giai nhân"
Có nghĩa:
"Muốn lấy một giai nhân bậc nhất thiên hạ"
Bán Dạ Sinh nghe xong bất giác ngẩn ngơ miệng há mắt giương, đứng yên một lát mới cười, nói: "Sư phụ quả là một bậc thần nhân. Hai câu này suốt ngày con chỉ đọc thầm trong bụng mà thôi. Vậy sư phụ như nghe được hết, đã đoán trúng được."
Hòa thượng nói: "Cư sĩ há không nghe câu:
Nhân gian tư ngữ
Thiên hạ nhược lôi?"
Có nghĩa:
(tiếng) Con người thì thầm với nhau
(chẳng khác ) Sấm động ở trên trời.
Bán Dạ Sinh nói: "Lẽ ra chuyện tình ái không nên đem bàn tại cửa thiền, nhưng sư phụ đã đề cập đến, đệ tử cũng xin phép đem thực tâm ra mà giãi bày. Không nói dấu gì sư phụ, đệ tử nghĩ dến đạo thì ít mà tơ tưởng đến tình dục thì nhiều. Xưa nay, bốn chữ tài tử giai nhân khắng khít với nhau, đã có tài tử thì phải có giai nhân mới xứng đôi, đã có giai nhân thì tài tử mới vừa kứa. Cho nay đệ tử chưa từng gặp tuyệt thế giai nhân, còn những phụ nữ có chút nhan sắc thì lại rơi vào tay bọn phàm phu tục tử, như vậy há không tủi phận hồng nhan lắm sao. Tài hoa của đệ tử hẳn không còn phải nói làm gì, ngay cả tướng mạo đệ tử cũng biết là không tệ, nhiều khi soi gương, cho dù Phan An, Vệ Giới ngày nay tái sinh, đệ tử quyết cũng không chịu nhường. Trời đã sinh ra một nam tử thế này, chẳng lẽ không sinh ra một gái nữ nhi thế kia cho xứng. Nay trên đời nếu không có giai nhân thì thôi, đã có thì đệ tử quyết tìm cho được. Vì vậy tuy đệ tử đã quá hai mươi tuổi mà vẫn chưa có chỗ nào, ý đệ tử không muốn phụ lòng trời đất đã ban cho cả tài lẫn mạo. Ðệ tử phải về tìm cho được giai nhân mà lấy, rồi sinh dứa con trai để nối nghiệp tông đường. Bấy giờ tâm nguyện đã thỏa, không còn ham muốn gì khác, đệ tử không những chỉ tự quay đầu trở lại, mà sẽ cảm hóa vợ con cùng sang bờ bên kia. Sư phụ nghĩ sao?"
Hòa thượng nghe xong, im lặng một lúc rồi cười lạt nói: "Nghe qua đoán biết cư sĩ có nhiều ý nghĩ đen tối. Có điều ông trời sinh ra con ngườ, tạo nên vạn vật lắm khi không đụng. Nếu ban cho cư sĩ một hình hài xấu xí, thì có phải với trí thông minh sáng suốt không điều gì mà không hiểu rõ của cư sĩ, không chừng cư sĩ có thể quay về với chánh quả. Chính vì vậy mà xưa nay những người sứt cùi gãy gọng nhận chịu hình phạt của trời, lại dễ trở thành Tiên Phật. Cư sĩ được ông trời quá nuông chiều, chẳng khác nào đứa trẻ được cha mẹ tưng tiu, lúc nhỏ không hề bị đòn, bị mắng bao giờ vì bậc cha mẹ sợ con khóc, con đau. Ðến khi lớn khôn, có làm điều sai trái mà bị quan đánh đòn, triều đình kết tội, bấy giờ lại trách cha mẹ xưa kia quá chiều chuộng. Ðẹp đẽ tài ba thật không phải là là một điềm lành vậy. Cư sĩ cậy mình có tài mạo nhất đời, cứ nằng nặc đòi tìm cho được đệ nhất giai nhân, rồi nghĩ ra trăm phương ngàn kế hầu thõa mãn điều nguyện ước, bấy giờ sẽ xảy ra mọi việc có thể khiến cư sĩ sa vào địa ngục. Cư sĩ muốn xuống địa ngục, hay muốn lên thiên đàng? Nếu cam tâm muốn xuống địa ngục, thì hãy cứ đi tìm đệ nhất giai nhân, nếu còn muốn lên thiên đàng, thì hãy dẹp bỏ những ý nghĩ xằng bậy kia đi, mà xuất gia cùng hòa thượng già này"
Bán Dạ Sinh nói: "Lời sư phụ vừa nói rất có ý vị;có điều bốn chữ thiên đường địa ngục e có phần khuôn sáo cho hạng tầm thường,không giống lời lẽ của một bậc cao tăng."
Hòa thượng nói: "Nguyên tắc của tham thiền chẳng qua là muốn tự giác ngộ mà tu thân, tự lập ở chổ không sinh không diệt, tức là Phật. Vậy há thực sự có thiên đường để lên đó chăng? Cho dù vì thói nguyệt hoa mà phạm tội, thì cũng chẳng qua là tội làm điếm nhục đến danh giáo mà thôi. Vậy há thực sự có địa ngục mà xuống đó chăng? Người làm việc thiện thì lên thiên đường, kẻ làm điều ác thì xuống địa ngục , quả là hai câu sáo ngữ. Ðối với người học thức như chúng ta, thì việc gì cũng có thể thoát sáo được, riêng với việc tu thân thì không thể thoát được tí nào. Rõ ràng là thiên đường địa ngục đều không có thật, nhưng cho dù không có thiên đàng, cũng không thể dùng thiên đường để làm bậc tiến lên cõi thiện; cho dù không có địa ngục cũng không thể lấy địa ngục dể răn kẻ ác. Cư sĩ chán nghe những lời khuôn sáo, bần tăng sẽ gác bỏ chuyện âm báo trong tương lai mà chỉ nói dương báo trong hiện tại, có điều nói đi nói lại, e không tránh khỏi có vài câu sáo ngữ giáo đầu. Nguời xưa có câu: "Mình không dâm vợ người, thì người không dâm vợ mình", quả là hai câu sáo ngữ hết sức cũ kỹ, hết sức thô sơ, hết sức bình thường có từ hồi nào đến giờ. Có điều, những kẻ tham hoa hiếu sắc trên đời này có mấy ai thoát được khuôn sáo này? Mình dâm vợ người ta, thì vợ mình cũng bị người ta dâm; mình làm nhục con gái người ta, thì con gái mình cũng bị người ta làm nhục. Muốn thoát được khuôn sáo thì chỉ có cách không gian, không dâm mà thôi; nếu muốn gian dâm thì khó có thể tránh được búa rìu của câu sáo ngữ. Cư sĩ muốn thoát sáo hay nhập sáo? Nếu muốn nhập sáo thì cứ việc đi tìm đệ nhất giai nhân, nếu muốn thoát sáo, thì xin dẹp bỏ những ý nghĩ xằng bậy kia, cùng xuất gia với hoà thượng già này."
Bán Dạ Sinh nói: "Những lời củ sư phụ rất thấu đáo. Có điều khi thuyết pháp cho bọn trẻ con ngu dốt thì phải nói tận tình, thế nào cho chúng toát mồ hôi hột mà không dám làm bậy, còn như thuyết lý với bọn đệ tử chúng con, e rằng không cần phải như thế. Ông trời lập pháp tuy nghiêm, nhưng lập pháp không phải là không có sự khoan thứ; trường hợp gian dâm ắt bị quả báo tuy nhiều nhưng trường hợp gian dâm mà không bị quả báo không phải là không ít. Cứ đi kiểm tra từng nhà thì rõ ngay. Nói chung lẽ tuần hoàn quả báo thật không sai, người làm diều bất thiện không thể không biết đến."
Hòa thượng nói: "Theo lời cư sĩ, thì những hành động gian dâm trên đời cũng có thể không bị quả báo chăng? Chỉ sợ ông trời sẽ không để sơ hở như vậy khi lập pháp, hay là vì cư sĩ mắt tai trung hậu nên hóa ra như thế. Chứ theo bần tăng thấy thì xưa nay chưa hề có sách nào ghi chép trường hợp gian dâm với vợ người ta mà không bị quả báo. Chỉ miệng đời truyền nhau thôi cũng không biết cơ man nào mà kể, riêng kẻ xuất gia thọ giới không tiện nói ra đấy thôi, cư sĩ thử nghĩ lại xem. Tuy nhiên đi gian dâm vợ con người ta còn tiện nói ra, chứ như vợ con mình bị người ta gian dâm thì không tiện nói ra, do vậy ít người biết. Chưa kể vợ giấu chồng, con gái giấu cha, ngay cả người trong nhà củng hkông biết thay, nên chuyện quả báo cứ bảo làm gì có; mãi đến khi nắp quan đậy lại thì mới biết lời xưa khong ngoa, bấy giờ đã lộ liễu rồi, nhưng lại không thể nói ra cho người khác biết. Bất luận mình gian dâm vợ con người ta hay vợ con mình bị vì lẽ quả báo bị người ta gian dâm, chỉ cần khi ý nghĩ gian dâm đã nảy ra thì bất tri bất giác trong lòng của vợ con cũng sẽ bộc phát bao nhiêu là vọng niệm. Có một chuyện mà nhà nào cũng có xảy ra, người nào cũng có lần qua như thế này; nếu có những người đàn ông trong khi ân ái với người vợ xấu xí của mình đã nghĩ đến một người đàn bà xinh đẹp nào đó đã gặp lúc ban ngày, để tăng thêm khoái cảm, thì cũng có ngững người đàn bà lúc hành lạc với chồng xấu xí đã nghĩ đến một người đàn ông đẹp trai nào đó đã gặp lúc ban ngày để được khoái cảm hơn. Ðấy cũng là một hình thức quả báo. Quả báo trong tâm tưởng còn là thế, huống hồ xâm nhập nhà người ta, gian dâm vợ con người ta, thì quỷ thần nào không thấy, trời đất nào không giận, mà hòng danh tiết vợ con mình được trọn vẹn? Bần tăng nói như thế, chắc không phải là sáo ngữ, cư sĩ nghĩ có đúng không?
Bán Dạ Sinh đáp: "Sư phụ nói rất chí lý, riêng có một điều, dám xin hỏi lại sư phụ. Kẻ có vợ mà đi gian dâm với vợ con người khác thì vợ con mình sẽ bị quả báo, điều ấy đã hẳn rồi. Nhưng dối với người không vợ, không con, nếu đi gian dâm vợ con người ta thì sao? Họ đâu có gí để chịu quả báo? Luật tròi như vậy há không phải là thiếu sót hay sao? Ấy là chưa nói trường hợp số vợ con của một người thì có hạn mà nữ sắc trong thiên hạ thì vô cùng. Thí dụ người ấy chỉ có một hai thê thiếp, một hai đứa con gái mà lại đi gian dâm vô số người khác, thì việc quả báo cho dù có chăng nữa, cũng không có gì là công bằng, như vậy có phải là vốn ít mà lời nhiều hay không, ông trời sẽ tính sao đây?"
Hòa thượng nghe Bán Dạ Sinh nói thế, thì biết đây là một tay cứng đầu không gì lay chuyển nổi, đành nử úp nửa mở nói: "Cư sĩ lý luận rất sắc bén, bần tăng thực không dám sánh lời. Có một điều, dó chỉ là lý thuyết suông, không có chi làm bằng, phải đợi khi nào sự việc xảy ra mới rõ. Cư sĩ hãy trở về tìm giai nhân mà cưới, sau đó sẽ có dịp ngồi trên nhục bồ đoàn mà tham ngộ. Từ đây về sau bần tăng sẽ không động khẩu nữ. Chỉ có một điều, đối với cư sĩ là người tài mạo siêu phàm, bần tăng thực không nỡ dứt đi cho được. Vậy thì sau này, vạn nhất cư sĩ vỡ được lẽ đạo, xin hãy về với bần tăng. Kể từ ngày mai trở đi, bần tăng sẽ ngóng cổ chờ".
Nói xong hòa thượng lấy giấy bút ra làm một bài thơ bốn câu năm chữ:
Thỉnh phao bì bố đại
Khứ tọa nhục bồ đoàn
Tu cập sinh thời hối
Hữu sai dĩ cát quan.
Có nghĩa:
Ðã bỏ túi da mà đi
Theo đường nhục bồ đoàn
Phải kíp ngộ lúc sống
Ðừng chết mới biết sai.
Rồi xếp tờ giấy lại trao cho Bán Dạ Sinh mà nói: "Lão đầu đà thô kệch này không tự lượng nên có bài kệ thường này. Thực ra, đó chẳng qua là xuất phát từ lòng ưu ái đối với cư sĩ mà thôi. Vậy cư sĩ hãy giữ lấy, ngày sau sẽ có dịp xét nghiệm lại".
Nói xong hào thượng đứng dậy với cử chỉ như tiển khách ra về.
Bán Dạ Sinh biết không tiện ngồi nán, tuy nhiên vì nể hòa thượng là một bậc cao tăng, nên không dám hậm hực bỏ đi, chỉ biết cúi đầu tạ lễ, nói: "Tính đệ tử ngang bướng, mong sư phụ từ bi tha thứ, ngày kia đệ tử có trở lại, kính xin sư phụ mở lòng dung nạp".
Nói xong lạy bốn lạy như lúc mới đến, hòa thượng còn dặn dò đôi câu trước khi chia ly.
Lai lịch của hòa thượng đến đây đã trình bày xong. Từ đây về sau này, chỉ xin nói hoàn cảnh Bán Dạ Sinh đắm chìm trong sắc dục mà thôi, tác giả chỉ trở lại với hòa thượng trong hồi cuối truyệCHƯƠNG 3:
Phim video clip Xem phim sec manh
10 cảnh sex hấp dẫn nhất màn bạc năm qua
Lại nói về Bán Dạ Sinh, từ khi chia tay với Cô phong trưởng lão, thì lẩm nhẩm một mình:
"Thật là một bậc chân tu! Nhưng mà mình tuổi mới hai mươi, chẳng khác nào một đóa hoa tươi vừa nở, lại bảo cạo đầu đi tu chịu khổ, trên đời sao mà có con người không tình cảm đến thế. Hôm nọ mình đến, chẳng qua vì lão là một nhà sư nổi tiếng, mình trong bụng cũng có một số kiến giải bất đồng, lại muốn học hỏi cái lẽ mầu nhiệm của đạo Thiền, nào ngờ lão xem mình rất thường. Ăn nói đã khắc bạc không chịu nổi, lại còn làm bài kệ chê người không đáng là một bậc đại trượng phu thân dài vai rộng. Nếu làm quan, mình dư sức cai tri thiên hạ, quản lý muôn dân, chẳng lẽ kiếm một người vở mà không nổi, để lão xài xể như vậy. Nay mình quyết phải đấu với lão một trận, không gặp người đẹp thì thôi, nếu gặp thì nhất định không bỏ lỡ, phải phong lưu một phen, xem món nợ tình này có ai dám đến đòi không. Chẳng phải kiêu căng, cho dù là hạng phụ nữ nào đi nữa, nếu có được một người chồng tài hoa như mình, nhất định là ai mà dụ dỗ nổi. Mà như thế thì làm sao có chuyện thất tiết được. Lẽ ra bài kệ mình phải xé nát rồi đem trả lại cho lão, nhưng nghĩ lại sau này muốn làm cho lão cứng họng thì phải có cái gì làm bằng cớ, nên thôi. Mình giũ đó để xem rồi đây chính lão có biết hối lỗi hay không".
Nghĩ xong , Sinh bèn cuộn tờ giấy mà cất vào tay áo. Về đén nhà, Sinh bèn sai gia nhân đến các nơi mai mối tìm cho được nguời đẹp nhất thiên hạ. Vốn con nhà thế phiệt, lại có dung mạo Phan An, tài không thua Tử Kiến, cho nên tự dắc rằng ai mà không muốn có người rể như mình, có nữ nhân nào không muốn có người chồng như mình.
Thế là hằng ngày khối nhà bắn tiếng cầu thân. Con nhà nghèo thì đến cho chàng xem mắt từ đầu đến chân, con nhà giàu thì vì thể diện thì hẹn gặp nhau nơi chùa miếu, hoặc ngoài đồng vắng, hai người gặp nhau, người có tình, kẻ vô ý, vậy mà khi về lắm cô tương tư thành bệnh.
Riêng chàng không vừa ý ai cả. Có một bà mối nói với Sinh:
"Xem chừng, chắc không có cô nào xứng với cậu. Riêng có tiểu thư con gái của Thiết Phi đạo nhân, tên Quý Hương, đẹp người đẹp nết may ra hợp với cậu thôi. Có điều, phụ thân của cô tính tình cổ quái, chắc không chịu để cậu xem mắt, mà cậu thì lại đòi xem mặt trước cho được, khó quá khó quá".
Bán Dạ Sinh nói:
"Tại sao gọi ông ấy là Thiết Phi đạo nhân? Làm sao biết cô ấy đẹp? Tại sao không chịu cho xem mắt?"
Bà mai nói:
"Ông lão ấy là một vị túc nho, cả huyện đều biết tiếng. Tính ông ấ rất lạ lùng kỳ quặ. Nhà dư ruộng đất nên không thèm giao dịch vói ai, đời không có lấy một nguời bạn, chỉ một mình đọc sách, bất cứ ai đdến xin làm quen cũng không tiếp. Một hôm có người khách lạ, vì mộ tiếng nên không quản đường xá xa xôi lặn lội đến thăm. Khach gõ cửa thật lâu, nhưng ông vẫn không ra mở, cũng không thèm lên tiếng. Khách đành đi, để lại một bài thọ trên cửa. Thơ có hai câu:
Ðản tri cao sĩ bồng vi hộ
Thùy liệu tiên sinh thiết tác phi
Có nghĩa:
Những tưởng cổng nhà cao sĩ làm bằng cỏ bồng
Ai ngờ chờ mải chỉ thấy cánh cửa làm bằng sắt
Về sau, ông lão có dịp đọc câu thơ, rất lấy làm thích và nói:
"Hai chữ Thiết Phi, tức cử sắt, nghe nửa lạ nửa quen, mà không sai"
Ông bèn chọn làm biệt hiệu, tự gọi là Thiết Phi dạo nhân.
Ông không co1 con trai, chỉ sinh được một gái như hoa, như ngọc. Bọn tôi làm mai, từng gặp hàng ngàn, hàng vạn cô gái nhưng chưa từng thấy cô nào sánh nổi. Lại được cha dạy dỗ, không có loại thi từ ca phú nào mà cô không làm được. cô còn là một tiểu thư khuê môn bất xuất, hội hè đình đám không hề lui tới, tuổi đã mười sáu rồi mà chưa từng đi ra ngoài, loại tam cô lục bà như ni cô sư bà... có bao giờ bén mảng tới nhà cô được.
Riêng có một hôm, khi tôi đi ngang qua nhà, ông lão đứng trước cửa gọi:
"Có phải bà là bà mối đấy không?"
Tôi đáp:
"Thưa chính tôi đây"
Họ mới đưa tôi vào nhà. Ông lão chỉ cô gái, nói:
"Dây là con gái của lão, lão muốn tìm một chàng rể tướng mạo dễ coi, lại biết hiếu thuận cha mẹ, bà để ý kiếm dùm lão một người."
Tôi mới nhắc đến cậu, thì ông ấy nói:
"Già này có nghe danh của cậu ấy, nhưng không rõ đức hạnh ra sao"
Tôi nói:
"Cậu ấy tuy tuổi thiếu niên nhưng tài lão thành, tiếng đồn không ngoa. Duy có một điều là cậu ấy muốn thấy mặt người rồi mới nộp sính lễ. Như tiểu thư đây tài mạo song toàn chắc vừa ý cậu, nhưng không rõ tôn ông có cho phép cậu ấy đến thăm không"
Ông lão nghe xong sầm nét mặt nói:
"Ăn nói hồ đồ. Chỉ có người Dương châu nuôi ngựa gầy mới phải cho người ta xem trước, chứ con gái nhà ta đời nào lại cho trai đến xem mặt."
Nghe ông lão nói vậy, tôi không biết nói gì thêm nên rút lui, bởi vậy e rằng việc này khó thành.
Bán Dạ Sinh suy nghĩ rồi nhủ lòng:
"Như ta hôm nay, trên khôngcòn cha mẹ, dưới không có anh em, một thân một mình, mai kia cưới vợ, biết nhờ ai trông trước trông sau, nhất là những lúc vắng nhà vì phải đi học xa hoặc ra làm quan. Ông cụ đây tâm tính như thế, phép tề gia như thế nào, không cần nói cũng rõ. Mình mà vào làm rể nhà này thì việc nhà việc cửa đã có cha vợ, đi đâu cũng khỏi lo gì cả, thật càng hay chứ sao"
Rồi tuy không nén được vui mừng, chàng cứ nằng nặc đòi được dàn xếp để được thoáng thấy tư dung hay nghe qua tiếng nói cuả nàng, vì vợ con là chuyện một đời. Bà mối mới bảo:
"Sao cậu không đi tìm thầy đồng xem quẻ? Nhân duyên tốt thì cậu cứ gọi Lưu bà này xucù tiến mối manh, tiện lợi đôi bề".
Chàng nghe lời, hôm sau lại thầy đồng nổi tiếng trong vùng, khấn khứa tên tuổi đôi đàng, xóc quẻ thì đươcï quẻ dạy:
Không còn hồ nghi
Nữ nhân quý báu
Cẩn thận canh chừng
Không cho ruồi phạm
Sinh đọc xong, nhủ rằng vợ chưa cưới chắc hẳn là đẹp, nhưng còn muốn được rõ hơn, mới xin xăm thêm một quẻ, quẻ thứ hai ra rằng:
Lấy vợ đoan trang
Chồng phải kính lễ
Khóa chặt cửa nhà
Ruồi vô không lọt
Chàng bằng lòng lắm, mới cho gọi mụ mối đi liệu việc hôn nhân. Thiết phi đạo nhân ban đầu còn từ chối, sau mụ mối nói mãi, rồi cũng thuận gã, lại còn viện lẽ nhà neo người, bắt Sinh ở rể.
Lại nói về dung mạo của quý hương, hôn lễ xong xuôi, tấm mạng che mặt tân nương đêm động phòng một khi đã tháo, quả thật dung nhan hoa nhường nguyệt thẹn, trên đời có một không hai, còn hơn lời mụ mối mô tả nhiều, hẳn nhiên là vậy
Duy một điều, tính tình nết na có thừa mà lẳng lơ tình tứ lại không đủ nên đôi phần không được hạp ý chồng. Ấy chẳng qua vì thường ngày ở nhà được cha mẹ dạy dỗ nghiêm túc, tai không nghe dâm thanh, mắt không nhìn tà sắc, sách đọc nếu không là Liệt nữ truyện thì cũng là Hiếu nữ kinh. Mà những điều này thì trái lại với tâm sự của Bán Dạ Sinh , cho nên Sinh đã đặt cho nàng hỗn danh Nữ đạo học, bởi vì từ ngôn ngữ dến cử chỉ đều giống hệt tác phong của cha.
Nghe ai nói một câu cợt nhả là nàng đỏ mặt, lập tức bỏ đi chổ khác.
Bán Dạ Sinh đôi phen đòi hoan lạc vơi nàng lúc ban ngày để đưọc ngắm xem chổ kín nhưng nàng xấu hổ, quyết liệt từ chối. Ðôi dịp định kéo vợ lại lột bỏ xiêm y thì nàng la hét inh ỏi như bị cưỡng dâm vậy.
Ban đêm nàng ngoan ngoãn trong bổn phận vợ chồng, có điều trông nét mặt không vui, không biết sao, chỉ thấy nhạt nhẽo mà không thấy gì hào hứng. Lúc ân ái với nàng, Sinh chỉ vừa vừa phải phải mà thôi,vì nàng không muốn chồng bày vẽ nọ kia. Muốn gần gụi theo lối "cách tường thủ hỏa" (cách vách lấy lửa), tức ôm hậu bộ), thì nàng cho là điều nhơ nhuốc, không hợp tác. Muốn xáp trận theo lối "đảo kiêu lập chúc" (chúi ngọn nến xuống, tức trồng chuối), thì nàng sợ hãi như lỗi đạo phu thê, phải khó nhọc lắm mới gác được chân nàng lên vai. Còn khi khoái cảm đến tột cùng, có kêu nàng mấy tiếng em em, mình mình, nàng cũng làm ngơ không đáp
Bán Dạ Sinh rất đỗi khổ tâm, nghĩ thầm trong bụng:
"Tiếc thay một tuyệt thế giai nhân, mà không có một chút lơi lả. Nàng chẳng khác một khúc gỗ, một pho tượng, nằm bên cạnh mình, có khoái lạc gì dâu, nhưng biết làm sao đây. Thôi thì từ từ uốn nắn, may ra có thay đổi được chăng".
Bèn ghé hiệu sách mua một quyển Xuân cung trình bày rất tinh xảo ba mươi sáu tư thế nam nử hợp hoan. Quyển này do học sĩ bản triều làTriệu Tử Ngang soạn gồm ba mươi sáu bài thơ dùng ca tụng lạc thú ái ân. Sinh đem về phòng để cùng đọc với nàng, thâm ý là để nàng thấy trai gái giao hoan với nhau không phải đơn giản chỉ là một lối, trái lại thiên biến vạn hóa vô cùng, khiến cho lạc thú phòng the thêm lên nhiều vẻ, rỏ ràng là những trò nọ kiểu kia giữa nam nữ bất lâu không phải do Sinh tự bày ra, người xưa cũng đã làm rồi, sách vở thời sau ghi lại là để làm chứng đấy thôi.
Lúc mới cầm sách, Quý Huơng không biết bên trong nói gì, nghĩ bụng nếu không phải nói về núi sông thì chắc phải nói về hoa cỏ.
Nhưng khi giở sách ra xem thì lại thấy ở hai trang đầu có đề bốn chữ đại tự Hán cung di chiếu (hình ảnh còn lưu lại trong cung điện nhà Hán). Nàng nghĩ trong cung điện nhà Hán có rất nhiều hiền phi thục viện, chắc đây là di ảnh của các bà ấy, nên tò mò lật xem. Chừng lật qua trang ba thì thấy một ngươi đàn ông ôm một người đàn bà, cả hai đều trần truồng như nhộng, giao tình bên một hòn non bộ. Lập tức nàng đỏ mặt tía tai, nổi giận mà rằng:
"Loại cách bậy bạ này lấy ở đâu về? Sao lại để ở đây làm ô uế phòng ta? Mau gọi a hoàn đem đi đốt".
Bán Dạ Sinh cản lại, nói:
"Ðồ cổ dấy, giá trăm lượng vàng. Anh mượn của bạn về xem. Nếu em có trăm lượng vàng để thường cho người ta, thì hãy đốt; nếu không, em nên để đó cho anh xem chơi vài hôm, rồi đem trả cho người ta"
Quý Hương thưa:
"Xem danh thư pháp họa để bồi dưỡng tính tình, chứ loại sách nhảm nhí này đọc có ích gì?"
Bán Dạ Sinh nói:
"Nếu là truyện sằng bậy, thì họa công vẽ lại để làm gì và người sưu tầm cũng không dại gì bỏ ra một số tiền lớn để mua về. Phải nói chỉ vì từ khi khai thiên lập địa đến giờ, dây là việc làm đứng đắn nhất. Cho nên văn nhân học sĩ dùng màu sắc để vẽ dùng lụa là để thêu, hoặc bày nơi hàng sách, hoặc giữ chốn kho tàng, để người sau biết mà bắt chước, nếu không lẽ âm dương giao cảm dần dần sẽ bị mai một, đến nỗi sẽ xảy ra cảnh chồng bỏ vợ, vợ oán chồng, nhân gian tuyệt đường sinh con đẻ cháu. Hôm nay anh mượn về, không nhũng để chính anh xem, mà còn muốn cho em đọc để hiểu lẽ đời, rồi mới thụ thai sinh con đẻ cái. Có như vậy sẽ hết bị trói buộc bởi quan niệm đạo đức, mà tình vợ chồng sau này còn đơm bông kết trái nữa. Sao em tỏ vẻ muộn phiền?"
Quý Hương bảo:
"Em không cho đây là việc đứng đắn. Sao xưa cổ nhân không bày ra phép tắc dạy người ân ái công khai giữa ban ngày, mà lại lén lút chờ canh khuya thanh vắng trong phòng tối tăm chật chội, khác nào kẻ trộm. Xem thế đủ rõ là không phải chút nào".
Bán Dạ Sinh đáp:
"Nàng nói vậy cũng có lý. Nhưng toàn do lỗi từ thân phụ, bởi hồi nhỏ cứ nhốt nàng trong nhà, mặt trời không thấy, không hề nghe chuyện trăng hoa, đầu óc hẹp hòi, kiến văn ít ỏi, nào có biết đời là gì. Ðời thì chỉ có anh đây, giữa bọn đàn ông mới hiểu rành chuyện phong lưu lịch duyệt mà thôi. Cứ như đàn bà con gái ai cũng như em cả, nào ai dám nghĩ vợ chồng cũng nên hợp hoan bạch nhật? Cặp nào hành dâm ban ngày rồi công bố cho đời biết? Nếu chưa ai hề làm thế, sao họa công lấy đâu làm căn cứ, vẽ lại trong sách, tài tình sống động như vầy... làm ai ngó cũng xao xuyến tâm can?"
Quý Hương nói:
"Vậy chớ ba má em không phải vợ chồng sao, mà nào có bao giờ yêu đương ban ngày".
Bán Dạ Sinh nói:
"Xin hỏi làm sao em biết được là ba má không giao hoan ban ngày?"
Quý Hương nói:
"Nếu có thì em cũng bắt gặp một lần. Chẳng lẽ em tới muời sáu tuổi rồi mà không bắt gặp được lần nào hay sao. đừng nói chi thấy, ngay cả nghe, em cũng chưa nghe bao giờ".
Bán Dạ Sinh cười to:
"Thôi đi cô ơi, việc đó con cái trong nhà không thấy, không nghe, chứ còn bọn a hoàn, nô tỳ thì có đứa nào không nghe không thấy. Ba má khi nào giao hoan thì phải đợi em đi khỏi, rồi khóa trái cửa lại, chứ em mà biết đươc, lỡ động lòng xuân rồi sinh dạ băn khoăn, ấm ức trong lòng thì sao, cho nên ba má phải giấu em. Em không tin cứ hỏi a hoàn của em mà xem ba má ban ngày có làm tình hay không."
Quý Hương suy nghĩ một chập, nói:
"Ban ngày ba má cũng thường đóng cửa ngủ, có lẽ để làm việc này cũng không biết chừng, sau đó hai ông bà nhìn nhau có vẻ ngượng ngùng."
Bán Dạ Sinh nói:
"Làm tình ban ngày thích hơn làm tình ban đêm gấp mưới lần. Cái thú ở chổ vợ chồng nhìn thấy nhau mới hào hứng hơn. Riêng có hai loại vợ chồng không bao giờ yêu nhau ban ngày."
Quý Hương hỏi:
"Hai loại nào vậy?"
Bán Dạ Sinh nói:
"Loại thứ nhất, chồng xấu vợ đẹp, loại thứ hai vợ xấu chồng đẹp"
Quý Hương nói:
"Tại sao hai loại vợ chồng này không làm tình ban ngày được?"
Bán Dạ Sinh nói:
"Khi lâm trận, thì cả hai vợ chồng phải thương yêu nhau, tinh thần huyết mạch phải giao hợp với nhau mới thích. Nếu người vợ da dẻ trắng phau, nỏn nà như một viên ngọc từng giũa mài, thì người chồng cởi xong quần áo ôm vợ vào lòng, vừa ân ái vừa ngắm nhìn, tự nhiên sẽ cảm thấy cực kỳ khoái lạc, hạ bộ bất giác sẽ cứng lên và to ra. Nhưng nếu người đàn ông xấu như ma, thịt vừa den vừa thô, mặc quần áo để che lấp, chứ đã cởi rồi thì cái xấu xí sẽ lộ hết ra ngoài, không còn cách nào che giấu được. Ðặt cái xấu xí bên cạnh cái mỷ miều, thì làm sao người đẹp không chán ghét mà buột miệng chê trách thành lời. Thế là cái vật cứng kia sẽ mềm đi, cái vật to kia sẽ thun lại, không biết đến bao giờ mới hành sự lại được, thử hỏi còn khoái lạc ở đâu. Thành ra đành làm tình ban đêm là hơn, vì còn che dấu được. Ðó la trường hợp vợ đẹp chồng xấu. Còn trường hợp vợ xấu chồng đẹp cũng vậy, không cần phải nói thêm làm gì.
Riêng vợ chồng mình thì khác: em trắng, anh cũng trắng, em hồng anh cũng hồng, em nõn nà anh cũng nõn nà, nếu mình không hành lạc ban ngày, không cùng khoe da thịt với nhau mà cứ chui vào chăn mền để tìm khoái cảm, há không phải là mai một cả một đời, có khác gì những cặp vợ chồng xấu xí. Em không tin, mình cứ thử xem, so cái thú vị với lúc làm tình ban đêm ra sao."
Quý Hương nghe đến đây, yên lặng nghẫm nghĩ, mặt tuy bẽn lẽn mà lòng đã xiêu, má ửng hồng, mắt long lanh.
Bán Dạ Sinh nghĩ thầm:
"Dục tình đã dậy, còn đợi chi chưa ra tay.
Có điều nàng chớm động tình, sóng tình chưa dậy, nếu vồ vập ngay thì có khác gì kẻ đói gặp thức ăn, cứ chụp nuốt, không kịp nhâm nhi, rốt cuộc nào biết thơm ngon là gì. phải làm cho nàng thành quýnh quáng, dâm tình tột độ, chừng đó hãy gầy cuộc mây mưa".
Sinh bèn ngồi lên ghế bành, kéo nàng vào lòng lật từng bức họa trong quyển Xuân cung cùng xem với nàng. Phần trìngh bày có khác với loại sách cùng loại. Trong mỗi bức họa, nử trang trên vẽ cảnh xuân tình, nửa trang dưới là lời bạt, mấy câu đều giải thích sự việc, mấy câu sau ca tụng tài nghệ của người vẽ, tất cả đều là bút phê của các bậc danh nhân.
Bán Dạ Sinh dặn nàng tưởng tượng như đang ở trong cuộc, thấm nhuần tinh thần từng bức họa để sau này bắt chước cho khéo. Sinh vừa xem vừa đọc cho nàng nghe.
Bức thứ nhất vẽ thế Túng điệp cầm phong (mặc bướm tìm hương). Lời bạt ghi: người nữ ngồi bên hòn non bộ, hai chân bẹt ra, người nam đưa ngọc hành vào âm cung, luồn bên này lách bên kia nhu bướm tìm nhị hoa. Bấy giờ:vì nam, nữ mới nhập cuộc chưa đến hồi cụp lạc, nên mắt họ giương to, trông không khác lúc bình thường cho lắm.
Bức thứ hai vẽ thế giáo phong nhưỡng mật (ong khôn lo hút mật), lời bạt ghi: Người nữ nằm ngữa trên chăn bông, tay nắm ch8ạt hai vế đưa lên cao để đón ngọc hành, người nam do d0ó, thấy rõ nhị hoa ở chỗ nào, tùy tiện tấn công. Bấy giờ vẽ mặt người nữ khao khát, còn người nam thì mặt mày gay cấn, khiến người xem phải hồi hộp, lo âu giùm, rõ thật tạo hóa trớ trêu.
Bức thứ ba vẽ thế Mê điểu quy lâm (chim lạc bay về rừng). Lời bạt ghi: người nữ nằm trên giường, hai chân giơ lên, hai tay đỡ vế của người nam, người này từ trên ấn thẳng xuống, nom như chim kia đi lạc đã lâu, thấy rừng cũ lao thẳng về. Nam nữ thần khí bừng bừng nét vẽ kỳ diệu chẳng khác nào bút bay mực múa vậy.
Bức thứ tư có tên Ngạ mã bôn tào (ngự đói tìm máng cỏ). Lời bạt ghi: Người nữ nằm trên giường, hai tay ôm quàng lấy người nam, trông như bị buộc bào nhau, hai chân gác lên vai của người nam. Ngọc hành mất hút vào trong âm cung, khít khao không hở một chỗ nào như ngựa đói vục đầu ăn cỏ trong máng vậy. Bấy giờ cả hai như lả người đi, mắt định nhắm mà vẫn muốn trông, lưỡi định thụt vào mà vẫn thè ra. Nét vẽ rất thần tình.
Bức thứ năm vẽ thế Song long đấu luyện (hai rồng mệt đấu nhau). Lời bạt ghi: Ðầu người nữ kê bên gối, hai tay buông xuôi mềm mại như bông, đầu người nam thì dựa bên tai người nữ, toàn thân buông xuôi cũng mềm mại như bông. Bấy giờ hai người đã thỏa, hồn thả theo mộng đẹp, lặng lẽ sau cơn kích động mạnh, tuy nhiên hai chân của người nữ vẫn còn gác trên hai vai của người nam chưa hạ xuống, thần thái ẩn vẻ sinh động, nếu không có khác gì hai tử thi, người xem khoái cảm đến cực độ, tưởng chừng mình cũng đang cùng họ "chung quan chung huyệt" vậy.
Xem đến đây, Quý Hương bất giác không dằn được nỗi hứng tình, Bán Dạ Sinh định lật sang trang khác. Sinh đang định lật sang trang khác xem tiếp với nàng thì nàng đẩy quyển sách ra rồi đứng dậy, uể oải nói:
"Sách hay ở chỗ nào, làm người ta thấy khó chịu. Anh xem một mình đi, em đi ngủ đây".
Bán Dạ Sinh ôm nàng vào lòng cười nói:
"Em cưng, trang sau còn hay lắm, xem xong mình sẽ đi ngủ".
Quý Hương nói:
"Chẳng lẽ ngày mai không còn thì giờ để xem hay sao, làm gì nhất định phải xem cho hết ngày hôm nay."
Bán Dạ Sinh biết nàng đã động lòng, bèn kề miệng lại mà hôn. Cả tháng nay, vợ chồng tuy đã ăn ở với nhau, nhưng Bán Dạ Sinh nào biết lưỡi vợ dài ngắn, vì mỗi lần Sinh định hôn, miệng nàng dều mím lại. Lần này thì khác, miệng hoa hé nở, lưỡi nàng còn êm ái giao tiếp với chồng.
Bán Dạ Sinh nói:
"Em cưng, mình không cần lên giường làm chi, cứ coi ghế này là hòn non bộ rồi bắt chước theo sách mà làm, xem sao."
Quý Hương làm mặt giận, nói:
"Bừa bãi như vậy há có phải là con người nữa không?"
Bán Dạ Sinh nói:
"Rõ ràng không phải việc của người, mà là việc của thần tiên. Anh với em thử làm thần tiên với nhau một lát nhé."
Nói xong, Sinh đưa tay lần cởi giải lưng nàng. Quý Huơng tuy ngoài miệng không chịu nhưng bụng đã ưng. Nàng chịu gác chân lên vai để mọi sự dễ dàng.
Cởi xong quần ra, với nhau thấy ướt một khoảng, thì biết nàng đã rịn dâm thủ trong khi xem tranh. Sinh cũng tháo quần mình, đặt nàng ngồi trên bụng,dang hai đùi mà đưa dương cụ vào âm cung, xong xuôi mới cởi nốt áo phần trên mình vợ. Tại sao không bắt đầu từ trên xuống, lại cởi quần trước rồi mới đến áo? Phải là tay sành sỏi như Bán Dạ Sinh mới làm như thế, vì nếu cởi áo trước, người nữ mặc dầu trong lòng rất nôn nóng, nhưng ngoài mặt vẫn còn e thẹn, do đó dễ gặp kháng cự. Còn khi đại tướng nơi bản doanh đã bị kềm chế rồi thì các nơi khác muốn làm gì chả được. Binh pháp gọi đó là Cầm vương đảo huyệt (đập hang bắt vua).
Quả nhiên Quý Hương riu ríu để Sinh từ từ lột sạch quần áo.
Bán Dạ Sinh cũng cỡi hết y trang trên mình, khởi cuộc mây mưa.
Hai chân nàng dang ra hai bên ghế, dương vật vào trong rồi cứ thế mà theo bức họa thứ nhất mà thực hành, hết cạ bên nọ lại cào bên kia. Nàng soải tay với nắm hai thành ghế, hạ thể nhấp nhô đáp ứng phu quân, ngẫu nhiên theo đúng bức họa số hai trong Xuân cung. Bỗng dương cụ chạm đến một nơi mà nàng bỗng cảm thấy tê nhưng không phải tê, mê nhưng cũng không biết có phải là mê, nhột mà như ngứa, chịu không thấu mà bỏ không đành.
Nàng nói:
"Một chỗ ấy thôi anh ơi".
Bán Dạ Sinh biết nhị hoa đã chạm, nên càng ra sức tróc nã trong cấm địa, dồn hết sức lục công kích một nới mà thôi. Một cách dìu dặt, ngọc hành dần dần trổ tài, hết đi từ cạn đến sâu, lại đi từ chậm đến nhanh, trước sau ra vô tới mấy trăm lần. Hai tay Quý Hương bất giác ôm ghì lấy mông Sinh, người nảy lên, nhục thân như ra công vây hảm chặt tướng địch đang hỗn xược tung hoành, tình thế gay cấn, thật không khác tình trạng bức họa đồ số ba. Bán Dạ Sinh cũng lấy tay o bế hạ thể nàng, nhưng trơn tuột không biết bám tay vào đâu, vì dâm thủy lêng láng khắp cả.
Bán Dạ Sinh nghĩ thầm:
"Cô này đang đê mê cực độ, lẽ ra còn phải phá ccô ấy một phen. Nhưng đây là bướ
Bộ phim set cô người hầu dâm đãng cực hay
Tìm kiếm chủ đề Nhung doan phim set hap dan với các từ khóa: